BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TẬP THỂ DỤC THỂ THAO NHƯ THẾ NÀO?

ThS. Nguyễn Quang Bảy

 

Tập thể dục thể thao là một phương pháp điều trị bệnh ĐTĐ quan trọng và có hiệu quả. Đặc biệt, với các BN ĐTĐ typ 2 thì tập thể dục thể thao là phương pháp điều trị ưu tiên. Tuy nhiên tập thể dục cũng có thể gây 1 số nguy cơ cho người bệnh, trong đó đáng kể là nguy cơ bị hạ đường máu.

  1. Các lợi ích của tập luyện thể dục:

-      Làm giảm đường máu cả trong và sau khi tập thể dục do làm tăng tiêu thụ đường máu. Tập thể dục không chỉ giúp kiểm soát đường máu hàng ngày mà nếu tập đều còn có thể giúp kiểm soát đường máu tốt hơn trong thời gian dài.

-      Làm tăng tăng tác dụng của insulin, do đó nhu cầu insulin sẽ giảm đi. Tác dụng này là cực kỳ quan trọng đối với các BN ĐTĐ typ 2 vì sự giảm tác dụng của insulin là nguyên nhân chính trong cơ chế bệnh sinh gây tăng đường máu ở các BN này.

-      Làm giảm nguy cơ bị các biến chứng tim mạch. Tập thể dục đều có thể làm giảm đáng kể các loại mỡ máu có hại, và làm tăng loại mỡ máu có lợi, hạn chế gây xơ vữa động mạch. Ngoài ra tập thể dục đều còn có thể làm giảm huyết áp trung bình 5-10 mmHg.

-      Làm giảm trọng lượng cơ thể, loại bỏ bớt lượng mỡ thừa ở các BN ĐTĐ typ 2, nhất là các BN béo bụng. Tập thể dục sẽ đạt hiệu quả cao hơn nếu phối hợp cùng với chế độ ăn giảm vừa phải calo nhưng sẽ không có tác dụng nếu như BN đang áp dụng chế độ ăn kiêng rất ít calo (600 – 800 kcal/ngày).

-      Cuối cùng, tập thể dục thể thao thường xuyên sẽ cải thiện các chức năng tim mạch như làm giảm nhịp tim (tim phải hoạt động ít hơn), làm tăng co bóp tống máu của tim... Tập thể dục thể thao đều còn mang lại cho người bệnh cảm giác thoải mái và 1 cuộc sống có chất lượng cao.

  

  1. Các nguy cơ có thể xảy ra trong và sau khi tập thể dục thể thao:

-            Thường gặp và nguy hiểm nhất là hạ đường máu xuống quá thấp, xảy ra ở các BN được điều trị insulin hoặc thuốc uống hạ đường máu với các biểu hiện đói, run chân tay, vã mồ hôi hoặc hôn mê...

-            Ngược lại, một số BN khi tập nặng lại có thể bị tăng đường máu, kéo dài trong vòng 1 vài giờ sau khi tập xong, một số BN có thể bị  nhiễm toan xê tôn do đường máu cao nhiều.

-            Tập thể thao nặng có thể làm tăng nguy cơ bị các biến chứng tim mạch như rối loạn nhịp tim, gây cơn đau thắt ngực thậm chí gây nhồi máu cơ tim.

-            Đôi khi, tập thể dục cũng có thể làm nặng thêm các biến chứng mạn tính của ĐTĐ như:

  • Gây xuất huyết đáy mắt hoặc làm bong võng mạc ở những người đã có biến chứng đáy mắt nặng.
  • Làm tăng mất thêm chất đạm qua nước tiểu, và làm nặng thêm bệnh lý thận do ĐTĐ.

-         Với những người béo, vận động thể lực nhiều có thể làm tăng nguy cơ bị tổn thương khớp và mô mềm hoặc tổn thương bàn chân, nhất là khi BN đi giày dép chật, hoặc đi chân đất, hoặc đã có biến chứng thần kinh gây giảm hoặc mất cảm giác ở bàn chân.

-         Các BN đã có biến chứng thần kinh tự động có thể không cho phép họ tăng mức vận động vì tim và hệ tuần hoàn không tăng hoạt động tương ứng hoặc do bị tụt huyết áp tư thế nhất là khi BN bị ra nhiều mồ hôi, mất nước trong quá trình tập luyện.

  1. Để tránh các nguy cơ trên, BN cần tuân thủ các hướng dẫn sau:

-      Trước khi bắt đầu tập luyện cần đi khám mắt, thận, thần kinh..để phát hiện các biến chứng mạn tính của ĐTĐ. Quan trọng nhất là khám tim mạch để phát hiện các nguy cơ bị thiếu máu cơ tim, tăng huyết áp hoặc tụt huyết áp tư thế trong khi tập luyện.

-      Chọn phương pháp tập thích hợp: nếu không có chống chỉ định gì thì người bệnh có thể tập bất cứ môn thể dục thể thao nào mà họ thích. Một số môn không thích hợp với các BN ĐTĐ như cử tạ vì nguy cơ cao gây biến chứng mạch máu. Các môn có thể gây chấn thương bàn chân như chạy hoặc đi bộ nên hạn chế cho những người đã có biến chứng thần kinh ở chân...

-      Phương thức tập: Chia làm 3 giai đoạn: khởi động (5-10 phút); tập chính (20-45 phút) và thư giãn (5-10 phút) giảm dần khối lượng vận động bằng cách đi bộ chậm, co duỗi chân tay... trước khi kết thúc bài tập.

-      Cường độ tập: Nên hạn chế cường độ tập không để huyết áp tối đa vượt quá 180 mmHg, và cường độ tập chỉ làm nhịp tim tăng 50-70% (0,5 – 0,7) mức dự trữ mà thôi. Đầu tiên phải đo nhịp tim lúc nghỉ (gọi là A) và đo nhịp tim đạt tối đa khi vận động (đo dưới sự giám sát của bác sỹ, gọi là B) rồi tính nhịp tim dự trữ = B –A. Cường độ tập cho phép tương ứng nhịp tim tăng lên tới = A + 0,5 hoặc 0,7 x (B-A). Ví dụ 1 BN có nhịp tim lúc nghỉ là 80, nhịp tim tối đa lúc tập là 140 thì chỉ nên tập cho đến khi nhịp tim lên đến = 0,5 (đến 0,7) x (140 - 80) + 80 = 110 – 122 lần/ phút.

-      Tần xuất tập: Để có thể đạt được những lợi ích về tim mạch hoặc kiểm soát đường máu tốt hơn thì các BN cần phải tập ít nhất 3 ngày/ tuần. Còn muốn giảm được cân, cần phải tập ít nhất 5 ngày/ tuần.

-      Một số lưu ý đặc biệt: Cần kiểm tra bàn chân sau mỗi lần tập xem có bị các nốt phồng da hoặc vết rách hoặc nhiễm trùng ở bàn chân không? Không nên tập trong môi trường quá nóng hoặc quá lạnh. Khi tập, nên mặc quần áo rộng, và phải đi giày, còn nếu tập ngoài nắng thì nên đeo kính râm. Phải có đủ nước uống trong và sau khi tập.

  1. Để tránh bị hạ đường máu hoặc tăng đường máu hơn nữa trong khi tập luyện cần:

-      Ăn 1 bữa vào 1 – 3 giờ trước khi tập hoặc tập sau bữa ăn 1-3 giờ

-      Nếu tập nặng hoặc kéo dài thì sau mỗi 30 phút cần ăn thêm 1 bữa nhẹ carbohydrate

-      Tiêm insulin ít nhất 1 giờ trước khi bắt đầu tập. Nếu phải tiêm trước khi tập chưa đến 1 giờ thì nên tiêm vào các vùng ít vận động (như bụng), không nên tiêm ở đùi.

-      Thay đổi chế độ điều trị insulin hàng ngày, và thường là phải giảm liều mũi tiêm insulin trước khi tập

-      Đo đường máu nhiều lần, tốt nhất là cả trước, trong và sau khi tập. Không tập nếu đường máu trước khi tập < 5,5 mmol/l hoặc > 14 mmol/l

-      Lưu ý là song song với tập thể dục thể thao đều đặn, các BN ĐTĐ cần tích cực vận động ngay tại nhà thông qua các công việc như làm vườn, dọn dẹp nhà cửa hay nội trợ… Các bạn cũng phải tránh các thói quen xấu, lười vận động như ngồi xem TV, chơi game hay ngủ trưa quá nhiều.